Trần Ngọc Mười Hai4/12/2013
 
Suy niệm Lời Ngài đọc trong tuần thứ Ba Phục Sinh năm C 14.4.2013
“Tôi vẫn đợi, đợi thêm người chút nữa,"
“Tự an ủi mình, khi cắn nỗi sầu đau.”
(dẫn từ thơ Nguyễn Tất Nhiên)
Ga 21: 1-19
Đợi như tôi, đâu cần “cắn nỗi sầu đau” bao giờ! Đợi như người, có vị  lại hành xử giống như thơ. Đợi Thơ ở nhà Đạo, là đợi chờ một hành xử  giống hệt như thánh cả, rất Phêrô. 
Trình thuật thánh Gioan, nay mô  tả thánh Phêrô bằng vào hành xử tựa như thế. Nhưng trước hết, hãy xem  thánh Mát-thêu diễn giải thế nào về Phêrô thánh cả của Hội thánh. Với  thánh Mát-thêu, cuối bài giảng trên núi có nói “người khôn xây nhà trên  đá”. Và, thánh Mát-thêu lại cũng diễn tả Phêrô thánh cả như đá tảng trên  đó Chúa xây dựng Hội thánh. Xem thế thì, người khôn đây là Đức Chúa,  còn đá tảng đó là Phêrô cũng từng chảy nước trước biến cố khó xử.
Thánh  Mát-thêu viết trình thuật, lại nối kết Đức Giêsu với Môsê trong đó có  đá tảng chảy những nước là nước cho dân uống. Và, thánh-sử cũng nói về  thánh Phêrô nghi ngờ/kháng cự ý nghĩ về đá tảng giống như thế. Sự thật  thì, thánh Phêrô cũng đã đem nước của “sự sống” đến với thánh Hội, nhưng  làm thế chỉ biểu trưng cho tình thương/tương quan với mọi người, chứ  không chỉ kể về nền tảng của Hội thánh, thôi.
Là đá tảng vẫn chảy  nước, thánh Phêrô đôi lúc cũng âm thầm hoặc công khai đối kháng ý định  của Thày mình. Thánh Mát-thêu lại cũng viết về thánh Phêrô những là:  đắng cay, chảy nước mắt lúc Thày chấp nhận Thương khó trước cả lúc thánh  Phêrô thực hiện công cuộc thừa tác, cho Chúa. Bởi nếu không, thánh-nhân  cũng chỉ là “đá sỏi ở bên đường” nơi đó không hạt giống nào nhú mọc  được, cách tốt tươi. Xem thế thì, đá tảng khóc đầy nước chẳng là “đá góc  tường” hoặc “đá nền” bền bỉ để Chúa xây dựng cộng đoàn Hội thánh của  Ngài.
Đá tảng chảy nước ròng, hoặc “đá nền” bền bỉ chỉ biểu trưng về  cách gìn giữ những gì được trân quý, đệ đạt. Đặc trưng ổn định cuộc sống  sau thời lưu lạc tựa hồ Môsê đập gậy vào đá, thấy đá chảy nước khóc  ròng. Nói thế, có nghĩa: giai đoạn chuyển tiếp đã bắt đầu và diễn tiến  đến giai đoạn không còn xảy ra như thế nữa. Thêm vào đó, chẳng đá nào  dát vàng ròng trong cùng chỗ như thế.
Người đập gậy vào đá những hai  lần, là muốn có nước để uống múc ngay tức thì, hoặc vẫn không tin vào  khả năng chảy nước ròng từ đá tảng khô cứng, tức: vị ấy những muốn gỡ bỏ  tiến trình chờ đợi để sự việc chóng đến với mình, mà thôi. Thiên Chúa  không muốn những chuyện như thế xảy đến với con người. Xảy ra như thế,  tức: con dân Ngài nay chẳng tin tưởng điều gì hết. Trên thực tế, đã có  lệnh cấm thờ bò vàng làm từ đá quý hay lệnh cản ngăn tạo nước uống rất  mau chóng; hoặc, có thể cũng khước từ lệnh truyền phải tiến thẳng đạt  tới đích điểm. Làm thế, sẽ chẳng đạt Đất Lành Chúa hứa, dù tổ phụ Môsê  hay những ai thuộc thế hệ kế tiếp, tiến hành vào Đất Lành, Ngài hứa hẹn.
Cũng  nên nhớ: thánh Phêrô khi trước, không là đấng bậc có văn hoá/văn minh  La-Hy, thị thành. Thánh Luca khi kể về thánh Phêrô, lại đã mô tả thánh  cả là người “không biết gì về ngữ pháp” tức chẳng biết đọc/biết viết,  rất sai sót rồi bị sửa sai, nên không thích. Thánh Mác-cô lại đã viết:  Chúa quở trách thánh Phêrô khi thánh cả cứ nghĩ Thày mình là Đức Mêsia  cao cả như vua cha ngoài đời. Riêng thánh Gioan lại kể về thánh Phêrô là  đấng bậc tuy cao cả nhưng vẫn chối Chúa, chối Thày, khi bị người tớ gái  hỏi han về tiểu sử, đến ba lần. Tiếp đó, thánh Phêrô lại ra ngoài khóc  sướt mướt hơn cả đá tảng chảy nước ròng, nhiều lúc. Nói thế có nghĩa:  thánh Phêrô đã biết khóc ròng khi phạm lỗi.
Trình thuật, nay kể về  Đức Chúa tỏ hiện với các thánh, trong đó có Phêrô thánh cả và khi Chúa  hỏi thánh cả có thương Thày hơn mọi người không, thánh Phêrô thấy đau  lòng tự hỏi: sao Thày mình lại hỏi thế. Bởi, dù sao, ai cũng biết thánh  Phêrô thương Thày biết chừng nào. 
Đọc trình thuật, người người mường  tượng cảnh huống thánh Phêrô đã khóc hết nước mắt, như đá tảng chảy  nước ròng, hệt như thế. Như thế là: ở đây, ta có đá tảng chảy nước ròng;  và trên đá ấy, Đức Chúa Phục sinh đã tin tưởng vẫn trao ban vai trò cai  quản, dựng xây chiên đàn của Chúa, là Hội thánh. 
Có thể nói, không  ai làm được việc ấy, mà lại không trải qua kinh nghiệm từng mất tinh  thần đến tột cùng tột độ, bật thành nước. Và có thể nói: cung cách thánh  Phêrô biết rõ và cảm kích Thày mình đã Phục Sinh trỗi dậy qua việc nhận  ra Thày là Đấng thông hiểu lòng mình, khiến mình khóc hết nước mắt. 
So  sánh hai trình thuật thánh Mátthêu và Gioan kể về thánh cả Phêrô, ta  thấy các vị nối nghiệp thánh cả cũng đã sẻ san công việc của đấng lãnh  đạo Hội thánh, khá thích thú. Sự thật thì: lần đầu tiến đến Rôma, thánh  Phêrô đã không xử sự theo cung cách của đấng bậc làm đầu như ta vẫn nhìn  và trông đợi nơi vai trò của các Giáo hoàng, mọi thời đại. 
Thật sự  thì, từ ban đầu, Hội thánh chẳng có ý định dựng xây dinh thự gì cao cả,  vững chắc. Dân con Chúa lúc ấy chỉ tụ tập quanh các “nhà-dùng làm nguyện  đường”, có thế thôi. Có thể, thánh Phêrô lúc ấy cũng có giáo xứ/giáo  đoàn phụ đỡ trong việc dẫn dắt nhóm hội/đoàn thể, khá bề thế. Có thể,  thánh cả Phêrô cũng lập được dăm ba thày sáu giúp quản trị từ thiện hoặc  huấn luyện tân tòng bằng giảng dạy. Cũng có thể, thánh Phêrô lại đã nhờ  vả một hai vị để quan hệ với xã hội bên ngoài, mỗi khi cần. 
Mãi đến  thế kỷ thứ tư, các Giám mục kế tục ngôi giáo hoàng, mới có các “công  chứng viên” chuyên trách giấy tờ và thừa-tác-vụ để liên hệ với các giáo  hội địa phương. Đó là thời điểm giáo hội mình xây đền thánh Latêranô và  các nguyện đường khác ở Rôma. Lúc ấy, cũng có các “Vương Cung Thánh  Đường” rộn rã, nhưng độc nhất vẫn chỉ có một “Nhà Thờ Chánh Toà, mà  thôi. Nhà thờ ấy, là nơi Giám mục chủ quản giáo phận sở tại; và, Vương  Cung Thánh Đường khi ấy cũng tựa hồ như dinh thự của vua quan/lãnh chúa  bề thế ở đời thường.
Kịp đến thế kỷ thứ 13, Giáo triều La Mã mới có  vị “Chưởng Ấn” giúp quản cai Hội thánh cách hữu hiệu hơn nhiều. Vào thế  kỷ thứ 14, thì vị “Chưởng Ấn” của Giáo hội đã làm việc với các nhóm/hội  mang tên gọi khác nhau. Nhưng, tính từ thời gian đầu thành lập, mọi  người trong đó có thể gọi thánh bộ ngoại giao như hiện nay. Các thế kỷ  sau đó, lại cũng có các hồng y, tương tợ nghị viện La Mã thời cổ xưa vẫn  nhóm họp một tuần những ba lần để nghị-sự và/hoặc bầu chọn các giáo  hoàng mới.
Lịch sử chứng minh: nhiều vị giáo hoàng đã không ngừng  giảm bớt quyền thế của các hồng y. Và, một số giáo hoàng thời đó đã rút  lại cho mình quyền hành pháp, lập pháp lẫn tư pháp và ít cho phép thuộc  viên/cấp dưới được kiểm soát hoặc cân bằng quyền thế với các ngài. Các  vị giáo hoàng khi ấy, lại đã phấn đấu chống trả các vua quan/lãnh chúa ở  đời suốt nhiều thế kỷ khi các vị này tìm cách gây ảnh hưởng lên giáo  quyền.
Đến thế kỷ thứ 18 và 19, vua quan/lãnh chúa ở đời mới bị cất  bỏ quyền hành hoặc uy tín giảm sút đến độ chỉ tượng trưng sau nhiều biến  chuyển ở Châu Âu. Hậu quả thấy rõ nhất, là: mọi quyền bính khi ấy đều  tập trung vào Hội thánh Công giáo La Mã, ở Vatican. Và Đức Giáo Hoàng  cùng các thánh bộ của ngài đã tạo nên thể chế gọi là Giáo triều La Mã.  Và, các triều đại Giáo hoàng quyền uy cứ thế gia tăng, bền bỉ. Nhiều  bằng chứng cho thấy: tâm não người đi Đạo vẫn coi sự việc này như chuyện  thực thi ý định của Chúa quyết kế nghiệp ngai vàng từ thánh Phêrô,  không thể bỏ.
Ngày hôm nay, điều hay nhất cho vị thế Giáo hoàng, Giám  mục và các linh mục, là: cũng nên đứng cùng hàng với đấng thánh cả  chuyên khóc ròng nhưng đã biết thiết lập thánh hội của ngài thành chốn  miền cảm thông thương mến, như Thày Chí Ái từng mong chuyện ấy sẽ xảy  ra, ở mọi thời.
Cảm nghiệm tinh thần Chúa trao ban quyền uy cho thánh cả, ta ngâm tiếp lời thơ trên, rằng:   
“Tôi vẫn đợi, đợi thêm người chút nữa
Tự an ủi mình, khi cắn nổi sầu đau.
Tình một hai năm…chưa bạc mái đầu
Chưa tuyệt vọng (bởi vì chưa hy vọng)
Và hôm nay, mưa nhiều trên tóc nhuộm
Xơ xác người, tôi thấy buồn chưa tôi?
(Nguyễn Tất Nhiên – Tình Một Hai Năm)     
Xơ  xác người, nhưng đâu là tâm trạng của thánh cả. Thánh rất cả, dù khóc  ròng/chảy nước cũng nhiều khi. Những khi và những lúc Chúa quyết định để  Hội thánh nhớ mãi: đá tảng mà còn chảy nước, rất sướt mướt. Vẫn khóc  ròng, nhưng không tuyệt vọng như nhà thơ đời, rất ở đời.     
Lm Nguyễn Đức Vinh Sanh 
Mai Tá lược dịch
Nguồn: Vietcatholic