Venezuela,  tên đầy đủ - Cộng hoà Venezuela Bolivariana (República Bolivariana de  Venezuela) là một quốc gia Mỹ Latinh nằm ở phía bắc Nam Mỹ với diện tích  916.000 km2, dân số 24 triệu người (năm 2000), trong đó người theo Kitô giáo chiếm tới 93%().  
                 Người  đứng đầu Nhà nước hiện nay là Tổng thống Hugo Chavez. Ông được bầu lần  đầu tiên vào năm 1998 với lời hứa đưa quốc gia giàu tài nguyên dầu mỏ  này thành một nước “xã hội chủ nghĩa Giáo hội”. 
            Trong  những ngày cuối tháng 6 đầu tháng 7/2010, báo chí Vatican đang rất quan  tâm tới cái gọi là “cuộc chiến ngôn từ do Tổng thống Venezuela Hugô  Chavez tiến hành, ngày càng trở lên gay gắt, nhằm chống lại Đức Hồng y  Jorge Urosa Savino, Tổng giám mục Caracas”().  Theo Catholic News Service (CNS): “Mới đây Tổng thống Venezuela “đổ dầu  vào lửa đối với mối quan hệ giữa Nhà nước và Giáo hội”, đáng chú ý nhất  là những nhận xét được ông phát biểu trong buổi truyền hình trực tiếp  lễ khai mạc kỉ niệm 200 năm đất nước giành được độc lập ngày 5 tháng 7”().  Nguyên nhân của mối bất hòa này, theo các phương tiện truyền thông của  Vatican, là do các nhà lãnh đạo Công giáo tại Venezuela đã liên kết đứng  ngay sau lưng Hồng y Jorge Urosa Savino để bảo vệ ngài khi ngài lên án  Chính phủ Venezuela đóng cửa nhiều phương tiện truyền thông đã chỉ trích  Tổng thống Hugo Chavez và kêu gọi Chính phủ nước này tôn trọng các  quyền dân chủ được Hiến pháp đảm bảo. Cũng theo Carol Glatz trên tờ CNS,  các nhà lãnh đạo Công giáo Venezuela thuộc số những người phê bình gay gắt nhất đối với các chính sách của Tổng thống Hugo Chavez. Họ đã cáo buộc Chính phủ Venezuela vi phạm các quyền công dân, để mặc tội phạm bùng phát và làm suy yếu nền dân chủ. Còn về phần mình, Tổng thống Hugo Chavez  lại  tố cáo hàng ngũ lãnh đạo Giáo hội Công giáo có tư tưởng chỉ coi trọng  tầng lớp trên, trong khi đó ông lại đứng về phía những người thuộc tầng  lớp dưới trong xã hội Venezuela.  
            Vậy  sự thực của những lời buộc tội lẫn nhau này là thế nào, chúng ta hãy  quay lại lịch sử nước này từ thời điểm những thập niên cuối thế kỉ XX  đến nay. 
            Vào  đầu những năm 90 thế kỉ XX, khi Hugo Chavez xuất hiện trên vũ đài chính  trị của Venezuela, người dân nước này thường nghe thấy những tuyên bố  của ông, đại loại như: “Tôi là người theo chủ nghĩa xã hội và theo học thuyết của Đức Giêsu Kitô, người xã hội chủ nghĩa đầu tiên, còn Giuđa là tên tư bản đầu tiên”(). Trong chiến dịch tranh cử năm 1998 Hugo Chavez nhắc đến Kinh Thánh nhiều lần giống như ông thường xuyên nhắc tới Hiến pháp của Venezuela. Theo lời ông, có một số lãnh tụ cách mạng đã cổ vũ ông hoạt động theo chủ nghĩa xã hội. Đó  là các tên tuổi như Simon Bolivar, Che Ghevara, Fidel Castro, Tupac  Amaru và một lần nữa ông lại nhắc tới Đức Giêsu Kitô. Hugo Chavez nói:  “Đức Kitô chân chính là người giải phóng những người nghèo khổ, là một  trong những người vĩ đại nhất trong lịch sử thế giới những nhà cách mạng  và những chiến sĩ chống lại bọn đế quốc”().  Còn vào năm 2002, khi giữ vững được chính quyền thoát khỏi một âm mưu  đảo chính nhà nước, Hugo Chavez đã tuyên bố trước đám đông dân chúng  đang hân hoan ăn mừng thắng lợi rằng: “Vương quốc của Đức Kitô, đó là  vương quốc của sự công bằng, đoàn kết và hữu ái, đó là vương quốc của  chủ nghĩa xã hội. Đó là vương quốc của đất nước Venezuela trong tương lai”(). Và mới đây vào ngày 14/7/2010, khi phát biểu trên đài truyền hình quốc gia Venezuela,  Tổng thống Hugo Chavez lại một lần nữa khẳng định rằng, tuy ông là  người theo chủ nghĩa xã hội, nhưng trước hết ông vẫn là một Kitô hữu.  Đối với ông, chủ nghĩa xã hội “không phải là một giáo điều, mà chỉ là  một phương pháp phân tích”. Theo ông, “Kitô giáo và chủ nghĩa xã hội  cùng là một hiện tượng” 
            
             
            
             
            
            Từ  những câu nói hay lời phát biểu trên của Hugo Chavez đã đưa chúng ta  quay trở lại với những tư tưởng của “Thần học giải phóng” một thứ thần  học rất thịnh hành ở Mỹ Latinh vào nửa sau thế kỉ XX. Khuynh hướng tư  tưởng Công giáo này xuất hiện sau Công đồng Vatiacan II với mục đích  hành động “vì lợi ích của người nghèo”. Trong các bài thuyết trình của  mình các nhà thần học giải phóng đã gắn kết thuyết giáo trên Núi của Đức  Kitô và học thuyết của Mác vào một dự án cải cách xã hội và Giáo hội mà  sau này người ta gọi là “chủ nghĩa xã hội Giáo hội” hay “Chủ nghĩa xã  hội Kitô giáo” (christian Socialism), một chế độ xã hội kết hợp giáo lí  Kitô giáo với mục đích, tôn chỉ của chủ nghĩa xã hội để thích ứng với  nhu cầu của cuộc sống hiện đại().  Theo các nhà thần học giải phóng, Giáo hội Công giáo cần phải đứng về  phía những người nghèo khổ và những người bị áp bức trong cuộc đấu tranh  vì những cải cách chính trị - xã hội. Thần học giải phóng đóng vai trò  nổi bật trong các phong trào giải phóng dân tộc ở các nước Mỹ Latinh  những năm 70- 80 thế kỉ XX và nhiều giáo sĩ Công giáo đã tham gia vào  phong trào này. 
            Đồng  thời cùng với các phong trào này, vào những năm 60 của thế kỉ XX ở  nhiều nước Mỹ Latinh đã xuất hiện “các công xã Kitô giáo cơ sở”, đó là  những hình thức “Giáo hội nhân dân” của người nghèo. Thông thường những  “Giáo hội” kiểu này không có liên hệ với các tổ chức Giáo hội Công giáo  chính thức và được nuôi dưỡng bằng những tư tưởng của thần học giải  phóng. Các công xã như vậy tồn tại ở các nước Mỹ Latinh với các tên gọi  khác nhau như: “Các Kitô hữu vì chủ nghĩa xã hội”, “Công xã cách mạng”  hay “Các Kitô hữu cơ sở”. 
            Dưới  thời của mình, Giáo hoàng Gioan Phaolô II và Hồng y Joseph Ratzinger đã  phát động một chiến dịch mạnh mẽ chống lại trào lưu thần học giải  phóng. Các ngài đã lên tiếng phê phán các nhà truyền giáo sử dụng tôn  giáo để biện minh cho hoạt động cách mạng. Kết quả của chiến dịch này là  vào năm 1984 tư tưởng Công giáo tả khuynh đã bị Tòa thánh Vatican chính thức lên án. 
            Về  mặt tư tưởng, nhiều tuyên bố của Hugo Chavez trùng hợp với các giáo  thuyết của thần học giải phóng. Ông thường gọi Đức Giêsu Kitô là người  cứu chuộc, là người giải phóng, là người của người nghèo, là người xã  hội chủ nghĩa vĩ đại nhất. Hugo Chavez tuyên bố: “Chúng ta bước theo  những bước chân của Đức Kitô và khẳng định rằng, trong quá trình cách  mạng của chúng ta Đức Kitô của những người cùng khổ là một tấm gương vĩ  đại nhất trong cuộc đấu tranh vì phẩm giá của con người”(). 
            Giáo sĩ Dòng Tên Jose Gaso đã từng gọi Hugo Chavez “là nhà truyền giáo tốt nhất, bởi vì ông tin vào điều mà ông cảm nhận và ông có tình yêu chân thành đối với mọi người và đối với Đức Giêsu”(). 
            Ngày  nay nhiều người cho rằng, thần học giải phóng không còn ảnh hưởng lớn  trong tư tưởng xã hội Mỹ Latinh như lúc mới ra đời và người vận dụng nó  không phải là những nhà chính trị cấp tiến cánh tả. Tuy nhiên, cũng khó  nói rằng Hugo Chavez đang phục hưng những tư tưởng của thần học giải  phóng. Trong quan niệm của Hugo Chavez về “chủ nghĩa xã hội thế kỉ XXI”  có một phần nào đó nhắc lại tư tưởng “sự lựa chọn vì mục đích của người  nghèo” trong thần học giải phóng. Nhưng rất khó tách bạch trong tư tưởng  của ông đâu là tôn giáo, đâu là dân tộc và đại chúng. Theo ý kiến của  Emil Dabagian, nghiên cứu viên cao cấp của Trung tâm Nghiên cứu chính  trị của Viện nghiên cứu Mỹ Latinh thuộc Viện Hàn lâm khoa học Nga,  “không thể coi Chavez là người tiếp tục những tư tưởng của thần học giải  phóng. Ông sử dụng Đức Kitô cho những mục đích chính trị của mình”( 
            
              
            
             
            
            ). 
            
            Bản thân nhà lãnh đạo cao nhất của Venezuela  cũng làm nóng lên cuộc tranh luận về những quan điểm tôn giáo của riêng  mình bằng những lời nói trái ngược nhau. Khi trở thành Tổng thống, Hugo  Chavez đã cho phép các tổ chức của đạo Tin lành tiến hành giảng dạy tôn  giáo trong các trường học. Năm 2002 ông thông báo với báo chí rằng ông  là một thành viên tích cực của Giáo hội Tin lành phái Phúc Âm. Ngay sau  đó ông lại tuyên bố rằng, tuy ông có thiện cảm với những người Tin lành  phái Phúc Âm nhưng ông vẫn là một tín đồ Công giáo. Năm 2008, trên báo  chí lại xuất hiện thông tin rằng Hugo Chavez ủng hộ Giáo hội Công giáo Cải cách Venezuela.  Đây là một tổ chức Công giáo phi quan phương cho phép kết hôn đồng  giới, cho phép li hôn và hủy bỏ quy định đời sống độc thân đối với các  giáo sĩ Công giáo. 
            Mặc  dù có những phát biểu công khai trước công luận về khuynh hướng Kitô  giáo của mình, nhưng quan hệ giữa người đứng đầu Nhà nước Venezuela hiện  nay với giới tu sĩ Công giáo của nước này vẫn luôn ở trong tình trạng  rất căng thẳng. Điều này không có gì đáng ngạc nhiên vì trong hoạt động  của mình với tư cách là Tổng thống của Venezuela, Hugo Chavez đã cắt  giảm một nửa trợ cấp của Nhà nước cho Giáo hội Công giáo nước này. 
            Người  thường xuyên phê phán Hugo Chavez là Hồng y Rosalio Castilio Lara,  người đã có lần gọi Tổng thống là “nhà độc tài hoang tưởng”, người đã  phá vỡ nền dân chủ ở Venezuela. Về phần mình, Hugo Chavez cũng không  ngần ngại lên án đối thủ của ông.  Ông gọi những giám mục đã phê phán ông là “những con quỷ”, còn Giáo hội  Công giáo là “khối u” và khẳng định rằng, giới tu sĩ Công giáo đang  tham gia vào một âm mưu chống lại Chính phủ của ông. Mới đây, như đã nêu  ở phần đầu bài viết này, khi phê phán đường lối lãnh đạo đất nước của  Hugo Chavez, Hồng y Jorge Urosa Savino, Tổng giám mục Caracas cho rằng  “Tổng thống đang đưa đất nước đi xuống con đường xã hội chủ nghĩa macxit  và tạo ra chế độ độc tài”().  Hugo Chavez đã không ngần ngại gọi vị Hồng y này là “con lợn” và ví ông  giống như “người sống trong hang, gân cổ dọa dẫm dân chúng về cộng sản”().  Ông nói tiếp: “Chủ nghĩa cộng sản và đạo Công giáo có thể nắm tay nhau  cùng bước đi. Thế nhưng chúng ta đang bước đi ngon lành thì ông Hồng y  này xuất hiện và làm cho nhân dân đâm ra e sợ chủ nghĩa cộng sản, làm  như là chúng tôi đã có cả một nghị trình theo chủ nghĩa cộng sản rồi  không bằng.”()  Trước đó, năm 2006, đáp lại lời phê phán của Hồng y Oscar Rodriges  Maradiaga đến từ Honduras đối với chế độ mới ở Venezuela do Hugo Chavez  lãnh đạo, Tổng thống đã gọi vị Hồng y này là “thằng hề của chủ nghĩa đế  quốc” và là “con vẹt”. Tất nhiên sau đó ông đã buộc phải có lời xin lỗi  đối với vị Hồng y này(). 
            Hội  đồng Giám mục của Giáo hội Công giáo ở Caracas thường xuyên phê phán  Hugo Chavez thiếu những chương trình kinh tế, xã hội có hiệu quả và xây  dựng “chủ nghĩa xã hội thế kỉ XXI” không tính đến ý kiến của người dân.  Sự lo sợ của Giáo hội Công giáo Venezuela nằm ở chỗ nước này đang ngày  càng xích gần lại với đất nước Cuba, trong đó có việc Venezuela mời hàng  nghìn công dân Cuba tới nước họ để làm công tác khoa học và công tác xã  hội. Theo ý kiến của giới tăng lữ Venezuela, tất cả điều đó sẽ dẫn đến việc truyền bá mô hình tư tưởng Cuba vào Venezuela.  Về phần mình, ngày 14/7/2010, phát biểu trên Đài Truyền hình Quốc gia,  Tổng thống Hugo Chavez khẳng định rằng, không phải Liên Xô, không phải  Cuba, không phải một nước xã hội chủ nghĩa nào khác trước đây cũng như  hiện nay là hình mẫu cho chủ nghĩa xã hội Bolivar mới của ông.()  Hugo Chavez cũng đã nhiều lần làm cho giới tăng lữ cao cấp của nước này  hiểu rõ rằng, ông không cần quan tâm tới ý kiến của họ và nói rằng, Hội  đồng Giám mục Giáo hội Công giáo Venezuela hãy quan tâm đến các vấn đề  tôn giáo của họ, chứ đừng tham gia vào các vấn đề chính trị của Nhà  nước. 
            Sự chống đối chế độ xã hội chủ nghĩa ở Venezuela  của Giáo hội Công giáo không chỉ dừng lại ở lời nói, hay nói theo cách  nói của Catholic News Service, “cuộc tấn công bằng ngôn từ”. Các thành  viên của một tổ chức Công giáo có tên là “Opus Die” đã tham gia vào một  âm mưu nhằm thực hiện một cuộc đảo chính lật đổ Hugo Chavez vào năm  2002, nhưng đã bị bại lộ. Hồng y Jose Ignasio Velasco lúc đó là một  trong số những người đã kí sắc lệnh về sự chuyển giao chính quyền tổng  thống cho nhà kinh doanh Pedro Carmona và do vậy hình ảnh Giáo hội Công  giáo Venezuela đã bị tổn thương đáng kể giữa những người dân thường  Venezuela, mà đa số họ đều là những người ủng hộ Hugo Chavez. 
            Còn trong quan hệ trực tiếp với Tòa thánh Vatican,  nhìn chung, cả Tòa thánh và Hugo Chavez đều chưa bao giờ vượt ra khỏi  khuôn khổ các cuộc tiếp xúc chính thức. Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã  hai lần tiếp Hugo Chavez trong các năm 2000 và 2002. Lúc đó cả hai cùng  gặp nhau ở quan điểm lên án cuộc chiến tranh Irắc. Mặc dù Giáo hoàng  Gioan Phaolô II nhiều lần bày tỏ lo ngại về “tình hình bất ổn ở  Venezuela và sự đe dọa nghiêm trọng nền dân chủ” và Ngài đã tuyên bố  rằng, “nền dân chủ không có giá trị sẽ trở thành chế độ quyền uy  (autoritarism)”, nhưng Hugo Chavez đã công khai bày tỏ sự kính trọng của  mình đối với Gioan Phaolô II và sau khi Ngài qua đời năm 2005,  Venezuela đã để quốc tang trong 5 ngày.  
             Khi  lên ngôi, Giáo hoàng Benedicto XVI đã lên tiếng nói về “sự mở đầu kỉ  nguyên mới trong quan hệ giữa Giáo hội Công giáo với Chính phủ Venezuela”. Năm 2006 trong chuyến viếng thăm Vatican của Hugo Chavez, Tổng thống Venezuela đã tặng Giáo hoàng Benedicto XVI một  bức chân dung lớn của Simon Bolivar, anh hùng đấu tranh vì nền độc lập  của Venezuela và thông báo rằng chính tại Rôma vào năm 21 tuổi Simon  Bolivar, một tín đồ Công giáo, chứ không phải là một người vô thần như  người ta từng nghĩ, đã thề giải phóng Nam Mỹ khỏi chính quyền thực dân  Tây Ban Nha. 
            Hugo Chavez đã nhận được thư của Tòa thánh Vatican bày tỏ sự lo ngại về tình hình của Giáo hội Công giáo ở Venezuela.  Tổng thống hứa hẹn sẽ cố gắng làm cho tình hình lắng dịu và khẳng định  với Giáo hoàng Benedicto XVI rằng, xung đột giữa Chính phủ Venezuela với  Giáo hội Công giáo ở nước này sẽ được hạn chế bởi “thời gian, không  gian và những cá nhân”, điều đó có nghĩa là cuộc xung đột này sẽ không  vượt ra khỏi phạm vi của một nhóm nhỏ người. Sau chuyến công du Vatican,  Hugo Chavez tuyên bố rằng, “cuộc cách mạng Bolivar là một cuộc cách  mạng rất Kitô giáo”, còn Fidel Castro, người bạn của ông, người đã cùng  ông “nói nhiều về Đấng Kitô, cách đây không lâu đã nói rằng, ông là một  Kitô hữu về phương diện xã hội”(). 
            Một vấn đề được đặt ra ở đây là: Tại sao đại đa số người dân theo Công giáo ở Venezuela  lại ủng hộ Hugo Chavez chống lại Giáo hội Công giáo quan phương ở nước  này? Câu trả lời rõ ràng ở đây là, trong cương lĩnh chính trị của mình,  Tổng thống Venezuela Hugo Chavez dựa trước hết vào những tầng lớp dân cư  nghèo khổ. Còn Giáo hội Công giáo ở Mỹ Latinh lại luôn gắn với những  chủ sở hữu lớn và những tổ chức ủng hộ các lực lượng chính trị bảo thủ.  Giới tăng lữ cao cấp luôn sống xa rời nhân dân giống như giới thượng lưu  chính trị. Chính vì vậy mà ở khu vực này đã xuất hiện và trở nên phổ  biến cái gọi là “thần học giải phóng” và “Giáo hội nhân dân” chống lại  giới thượng lưu. Công giáo ở Venezuela  không đồng nhất và ngày nay nó phân liệt thành hai phái. Một bên là một  tổ chức Công giáo rất bảo thủ, còn bên kia là một tôn giáo bình dân  mang tính chiết trung, kết hợp cả yếu tố Công giáo và yếu tố Indian (yếu  tố da đỏ). Do vậy, ý kiến của Hội đồng Giám mục Công giáo bảo thủ ngày  nay đối với quần chúng nhân dân thường không có tính thuyết phục bằng  những lời tuyên bố của một tổng thống có uy tín hứa hẹn mang lại cho họ  một xã hội công bằng ở ngay trong đời sống hiện tại. 
            Hiện  thực chính trị hiện nay, ở Mỹ Latinh đang đặt Giáo hội Công giáo trước  những điều kiện mới. Bắt đầu từ cuối thế kỉ XX cho tới hiện nay, từ chỗ  là thành trì của Công giáo, chính quyền nhà nước ở Mỹ Latinh đã chuyển  dần về tay các lực lượng chính trị cánh tả: năm 1998 ở Venezuela, năm  2002 ở Argentina, năm 2002 và 2006 ở Brasil, năm 2005 ở Bolivia và  Uruguay, năm 2006 ở Ecuador và Nicaragua, năm 2008 ở Paraguay. Còn ở Peru và Mexico  vào năm 2006 tuy lực lượng cánh tả chưa giành được thắng lợi nhưng cũng  đã thu hút được gần nửa số cử tri. Hơn thế nữa, Tổng thống mới của  Paraguay, ngài Fernando Lugo, trước đây đã từng là một giáo sĩ Công  giáo, nay công khai tuyên bố về sự trung thành của mình đối với “thần  học giải phóng”. 
            Ngược lại với Venezuela, địa vị của Giáo hội Công giáo ở Colombia khá ổn định. Ở các nước khác như Brasil, Uruguay, Chile,  tuy lãnh đạo các nước này cùng chung sống với tầng lớp cao cấp của Giáo  hội Công giáo nhưng họ đều tuyên bố không can thiệp vào công việc của  nhau. Còn ở Cuba, bắt đầu từ chuyến tông du của Giáo hoàng Gioan Phaolô  II tới hòn đảo này năm 1998 và cuộc gặp gỡ lịch sử với Chủ tịch Fidel  Castro, các cuộc đàm phán của đại diện Tòa thánh Vatican và Giáo hội địa  phương với ban lãnh đạo Cuba đã được tiến hành, quan hệ giữa Nhà nước  và Giáo hội ở nước này đã được cải thiện rõ rệt. Đặc biệt mới đây, ngày  19 tháng 5 năm 2010 tại Cuba đã diễn ra một cuộc gặp gỡ lịch sử giữa các  giám mục Công giáo Cuba với Chủ tịch Raul Castro Ruz. Tham gia cuộc gặp  gỡ này có Hồng y Jaime Ortega, Tổng giám mục La Havana và Dionisio  Garcia, Tổng giám mục Santiago de Cuba, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Cuba.  Về phía Nhà nước Cuba có Chủ tịch Raul Castro Ruz và ông Caridad Diego  Bello, phụ trách Văn phòng Tôn giáo của Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản  Cuba. Theo đánh giá của Hồng y Jaime Ortega, cuộc gặp gỡ đã có những kết  quả tích cực, một tiến trình “trao đổi đã khởi sự rất tốt” về các vấn  đề quốc gia. Cuộc gặp gỡ đó có tầm quan trọng lớn, vượt khỏi các khái  niệm cũ để đi vào khái niệm mới xuất phát từ chính bản tính của Giáo hội  Công giáo và của sứ vụ của Giáo hội này trong xã hội. Tuy cuộc trao đổi  , theo Hồng y Jaime Ortega, không nằm trong mối quan hệ giữa Giáo hội  và Nhà nước nhưng hi vọng sẽ “mở ra một thời kì mới” cho mối quan hệ này(). 
            Tuy  nhiên, cũng cần phải nói thêm rằng, ở nhiều nước Mỹ Latinh với chế độ  chính trị cánh tả như Venezuela, và những nước có thái độ thiện cảm đối  với chính phủ của Hugo Chavez như Bolivia, Ecuador, Nicaragua quan hệ  giữa Giáo hội Công giáo với chính quyền nhà nước vẫn còn nhiều vấn đề  cần tiếp tục giải quyết.  
            Một vấn đề khác được đặt ra ở Mỹ Latinh nói chung và Venezuela  nói riêng, đó là: Trong những xã hội đang có nhiều biến động như hiện  nay, người dân sẽ chọn cho mình tín ngưỡng, tôn giáo nào? Nhiều người  dân Mỹ Latinh thường nói: “Giáo hội Công giáo chọn người nghèo, còn  người nghèo lại chọn những người theo giáo phái Ngũ Tuần”. Thật vậy,  hiện nay ở khu vực này đạo Tin lành đang là đối thủ cạnh tranh chính với  Giáo hội Công giáo. Trong lúc những người Công giáo đang mải mê với đấu  tranh chính trị và chống lại những cuộc cải cách xã hội thì những tín  đồ của đạo Tin lành lại tiến hành truyền giáo rất hiệu quả. Họ giành  giật tín đồ từ Giáo hội Công giáo. Và cùng với thời gian họ cũng đã trở  thành những nhà hoạt động chính trị tích cực. Thí dụ, ở Guatemala, một  đất nước có nhiều tín đồ đạo Tin lành nhất ở Mỹ Latinh, đã có hai tổng  thống là tín đồ đạo Tin lành. Ở một loạt quốc gia khác, đặc biệt là ở  Brasil, trong 15 năm trở lại đây một bộ phận tín đồ đạo Tin lành đang  ngả theo các lực lượng chính trị cánh tả. Họ đứng về phía lực lượng đối  lập với Giáo hội Công giáo và tuyên bố những tư tưởng về công bằng xã  hội. Nhiều thủ lĩnh của các lực lượng chính trị cánh tả đã trở thành tín  đồ của các Giáo hội Tin lành và tiếp tục cuộc đấu tranh chính trị của  mình. 
            Ở Venezuela, quan hệ của Tổng thống Hugo Chavez với các tín đồ đạo Tin lành trước đây vẫn luôn diễn ra rất tốt đẹp. Nhưng tình hình  bỗng dưng xấu đi một cách nghiêm trọng khi vào năm 2005 nhà truyền giáo  Tin lành Mỹ Pet Robertson đã phát biểu trên truyền hình kêu gọi Chính  phủ Hoa Kỳ tử hình Hugo Chavez. Mặc dù sau đó nhà truyền giáo này đã có  lời xin lỗi, nhưng Hugo Chavez vẫn ra lệnh đuổi New Tribes, một tổ chức  truyền giáo Tin lành lớn của Mỹ, ra khỏi Venezuela và gọi những thành  viên của tổ chức này là “những tên gián điệp của chủ nghĩa đế quốc”.  Giáo hội Công giáo Venezuela  đã hoan nghênh động thái này, còn nhiều tín đồ đạo Tin lành cho đến nay  vẫn phê phán Hugo Chavez. Mặc dù vậy, Hugo Chavez vẫn giữ được sự mến  mộ của các tín đồ đạo Tin lành đối với ông nhờ sự thiên vị của ông đối  với tôn giáo này và sự phê phán của ông đối với Giáo hội Công giáo. Đặc  biệt, trong những năm gần đây, mặc dù có phần thận trọng hơn, nhưng  những người theo giáo phái Ngũ Tuần vẫn dành cho Tổng thống Hugo Chavez những sự ủng hộ không hề thay đổi. 
            Bên cạnh việc truyền bá đạo Tin lành với các hình thức khác nhau, ở Mỹ Latinh cũng xuất  hiện những khuynh hướng tín ngưỡng khác làm cho đời sống tôn giáo ở khu  vực này thêm đa dạng. Một mặt, ngày càng có nhiều người tuyên bố họ  không thuộc về một truyền thống tinh thần nào. Mặt khác, sự gia tăng  tinh thần dân tộc ở Mỹ Latinh dẫn tới việc truyền bá các tín ngưỡng bản  địa “tiền Colombo”  và điều này nhận được sự ủng hộ của các nhà lãnh đạo nhiều nước trong  khu vực. Thậm chí, tháng 5 năm 2007 Hugo Chavez đã yêu cầu Giáo hoàng  Benedicto XVI xin lỗi các thổ dân châu Mỹ khi ngài nói rằng “Kitô giáo  không áp đặt các nền văn hóa khác”, và việc phục hưng các tín ngưỡng  “tiền Colombo” là “một bước thụt lùi”(). Hugo Chavez đã thẳng thừng bác bỏ: “Sự xâm chiếm (conquista) không phải là sự truyền bá Kitô giáo, nó là một tội ác lớn hơn cả sự hủy diệt (holocaust)(). 
             Việc đình chỉ giảng dạy tôn giáo trong các trường học ở Venezuela vào năm 2009, theo nhận xét của giới tăng lữ nước này, là cuộc tấn công cuối cùng vào vai trò của Giáo hội Công giáo Venezuela.  Đây cũng là sự kết thúc vai trò chi phối nhiều thế kỉ của Giáo hội Công  giáo trong lĩnh vực giáo dục. Trong những điều kiện như vậy, Hội đồng  Giám mục Venezuela chỉ còn cách liên tục đưa ra những tuyên bố về “tinh thần chống tôn giáo đang gia tăng và sự truyền bá tư tưởng macxit vô thần”() ở đất nước Mỹ Latinh này. Hiện nay, Hội đồng Giám mục của Giáo hội Công giáo ở Venezuela  vẫn đang là một trung tâm có ảnh hưởng lớn nhất chống lại Chính phủ của  Tổng thống Hugo Chavez. Còn về phía Chính phủ , việc tuyên truyền cho  người dân Venezuela  những tư tưởng của chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa xã hội vẫn sẽ tiếp tục được  đẩy mạnh. Những người lãnh đạo của nước này đang cố gắng dung hợp những  tư tưởng của chủ nghĩa xã hội với những tư tưởng của Kitô giáo. Điều  quan trọng ở đây không phải là việc sử dụng những tình cảm tôn giáo cho  những mục đích chính trị, cũng không phải là sự cố gắng biến lợi ích tôn  giáo thành lợi ích dân tộc chủ nghĩa, mà là ở chỗ liệu Giáo hội Công  giáo, các giáo phái Tin lành và các tổ chức tôn giáo, tín ngưỡng khác có  muốn tìm và có thể tìm cho mình một vị trí xứng đáng trong công cuộc  xây dựng “chủ nghĩa xã hội thế kỉ XXI”, một xã hội vì những người nghèo  khổ ở Venezuela hay không? Câu hỏi vẫn chưa có lời giải. /. 
            TS Nguyễn Văn Dũng  
             
             
            
            
            
            
            
            
             
            
            
             
            
            
            
            
             
            
            
            
            
             
            
            
            
            
             
            
            
            
            
             
            
            
            
            
             
            
            
            
            
             
            
            
            
            
             
            
            
            
            
             
            
            
            
            
             
            
            
            
            
             
            
            
            
            
             
            
            
             
            
            
            
            
             
            
            
            
            
             
            
            
            
            
             
            
            
            
            
             
            
            
            
            
             
            
            
            
            
             
            
            
            
            
              
             
             
            Trong  quá khứ, mối quan hệ giữa Tòa Thánh và Venezuela đã rất căng thẳng. Đức  Thánh Cha Phanxicô nói đùa cho không khí bớt căng thẳng và tổng thống  Maduro tỏ ra khá thân thiện cho nên từ lời chào chính thức, không khí đã  có vẻ thoải mái.  
             
            -Chào buổi sáng, thưa ngài tổng thống. 
             
            -Rất vui được gặp Đức Thánh Cha, con rất vui. 
             
            Trong  cuộc họp kéo dài 20 phút, hai vị đã nói về tình hình ở Venezuela sau  cái chết của Hugo Chávez. Các chủ đề như cuộc chiến chống tội phạm, buôn  bán ma túy và nghèo đói cũng đã được đề cập. Đức Giáo Hoàng và tổng  thống Maduro cũng thảo luận về vai trò của Giáo Hội Công Giáo và các tổ  chức bác ái của Giáo Hội tại Venezuela. 
             
            Cả hai vị đã nói đùa để không khí thân thiện hơn. 
             
            Tổng thống nói: 
             
            -Đức Thánh Cha có vẻ gầy hơn là nhìn trong các hình ảnh. 
             
            -Ngài biết đấy, đó là truyền hình biến dạng ra ... Tôi không bao giờ trang điểm! 
             
            Ngay  cả lúc Đức Giáo Hoàng chào đón đoàn tùy tùng của tổng thống Nicolás  Maduro, ngài đã không để mất cơ hội để đưa ra những nhận xét hài hước. 
             
            Tổng thống giới thiệu: 
             
            - Đây là Đô đốc đầu tiên của hạm đội Venezuela. 
             
            -Trọng kính Đức Thánh Cha, thật là một vinh dự lớn. Con có thể hôn nhẫn của ngài không? 
             
            -Hãy cầu nguyện cho tôi. 
             
            - Dạ vâng. 
             
            Đức Thánh Cha nói: 
             
            -Cầu nguyện cho tôi, đừng chống lại tôi, OK? 
             
            - Không, con luôn ủng hộ Đức Thánh Cha! 
             
            Đức  Giáo Hoàng đã nhận được bức ảnh Đức Mẹ Coromoto, bổn mạng của  Venezuela, một tờ in đá của Simon Bolivar và một tác phẩm điêu khắc của  José Gregorio Hernández, là một bác sĩ đã sống tại thủ đô Caracas của  Venezuela mà quá trình phong chân phước hiện đang được tiến hành. Đáp  lại, Đức Giáo Hoàng đã tặng tổng thống Maduro một cây bút màu trắng khắc  hình bảo tàng viện Vatican và một bản sao những kết luận đưa ra sau  Thượng Hội Đồng Giám Mục Mỹ Châu La Tinh tại Aparecida. 
             
            -Nhìn vào  mục lục và đọc chương này tổng thống sẽ thấy rất thú vị vì giá trị của  nó. Tôi đã ở trong ủy ban soạn thảo kết luận chung thẩm này. Đó là một  tiếng kêu cứu từ châu Mỹ La tinh. 
             
            Vào cuối cuộc họp Đức Thánh Cha Phanxicô ban phép lành cho Tổng thống Venezuela bằng cách ghi dấu thánh giá trên trán. 
             
            Tưởng  cũng nên nhắc lại, trước tình trạng bất ổn chính trị ở Venezuela, Đức  Thánh Cha Phanxicô đã đưa ra một lời kêu gọi đặc biệt vào trưa Chúa Nhật  21 tháng Tư, sau khi ngài đọc Kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng chung với  các tín hữu tại quảng trường Thánh Phêrô. Đức Thánh Cha nói rằng Ngài lo  lắng về tình trạng bất ổn, và kêu gọi các nhà lãnh đạo Venezuela hãy  tìm kiếm một giải pháp hòa bình. 
             
            Đức Thánh Cha Phanxicô nói: "Tôi  theo dõi chặt chẽ những gì đang xảy ra ở Venezuela. Tôi lo ngại sâu  sắc, cầu nguyện liên lỉ và hy vọng rằng họ sẽ tìm ra phương cách đúng  đắn và hòa bình, để vượt qua các khó khăn nghiêm trọng mà đất nước đang  trải qua. Tôi mời gọi người dân thân yêu của Venezuela, và đặc biệt là  các nhà hoạch định thể chế và chính khách hãy từ chối mạnh mẽ bất cứ  hình thức bạo lực nào, và thiết lập một cuộc đối thoại dựa trên sự thật,  sự công nhận lẫn nhau, lợi ích chung và tình yêu đất nước". 
             
            Ngay  sau lời tuyên bố của Đức Thánh Cha, cả Tổng thống đắc cử Nicolas  Maduro, và nhà lãnh đạo đối lập, Henrique Capriles, đã cám ơn Đức Thánh  Cha. 
             
            Tổng thống tân cử Maduro gửi tin nhắn của mình trên Twitter:  @ NicolasMaduro: "Tôi đồng ý với Đức Thánh Cha Phanxicô. Tôi đang quan  tâm về sự không khoan dung, hận thù và bạo lực vốn gây ra nhiều thương  vọng. Cùng với Ngài, trọng kính Đức Thánh Cha, chúng ta cầu khẩn Chúa  Kitô Đấng Cứu Chuộc và Thánh Phanxicô Assisi hãy bảo vệ người dân và ban  hòa bình, cùng với lời chúc lành của Đức Thánh Cha. Xin cho đất nước  sớm có hoà bình”. 
             
            Còn ông Henrique Capriles, nhà lãnh đạo phe đối  lập, cho biết rằng ông chỉ công nhận cuộc bầu cử sau khi có cuộc kiểm  phiếu lại. Ông cũng trả lời cho Đức Thánh Cha thông qua mạng xã hội. @  Hcapriles: "Xin triệu lần cám ơn Đức Thánh Cha Phanxicô về việc Ngài lưu  tâm đến Venezuela, và việc tìm kiếm các giải pháp dựa trên cơ sở sự  thật". 
             
            Đức Hồng Y Jorge Urosa của Venezuela cảm ơn Đức Thánh Cha  vì đã cầu nguyện cho Venezuela, và nói rằng "Hội đồng Giám mục Venezuela  muốn đóng một vai trò trung gian hòa giải để thúc đẩy đối thoại". 
             
            Các  Giám mục Venezuela kêu gọi mọi người bình tĩnh, sau khi Chủ tịch Hội  đồng bầu cử quốc gia công bố một cuộc kiểm toán về cuộc bỏ phiếu bầu cử  tổng thống mới đây. 
             
            Theo kết quả ban đầu, ông Nicolás Maduro, phó  tổng thống của cố tổng thống Hugo Chávez đã đánh bại lãnh tụ đối lập  Henrique Capriles Radonski với một tỉ lệ sít sao chỉ là 2%. Ông Maduro  đã tuyên thệ nhậm chức tổng thống. 
             
            Các Giám mục Venezuela nói  trong một tuyên bố là kết quả bầu cử cho thấy "sự phân cực chính trị rất  rõ ràng, ảnh hưởng sâu sắc đến xã hội Venezuela", 
             
            Các giám mục  nói tiếp: "Nhân danh Chúa, chúng tôi khuyên các nhà lãnh đạo chính trị  và xã hội hãy loại trừ sự công kích, nói xấu lẫn nhau, và những thứ ngôn  ngữ kích động, nhằm tránh cuộc chiến đường phố, thường dẫn đến các hành  vi bạo lực và đôi khi dẫn đến cái chết nữa, để lắng nghe Lời Chúa đang  mời gọi đối thoại và hòa giải". 
             
            Căng thẳng giữa Giáo Hội và nhà  nước Venezuela đã xảy ra chủ yếu dưới thời Hugo Chavéz. Thật ra khi mới  được bầu lên làm tổng thống, Chavez và Hội Ðồng Giám Mục có mối giao hảo  tốt. Y luôn tuyên bố y là người Công Giáo, có chủ trương cải cách xã  hội và chủ trương không phá thai. Tuy nhiên, mối giao hảo bị suy đồi dần  khi các Ðức Giám Mục chống lại bản dự thảo hiến pháp dành quá nhiều  quyền cho Chavez và đường lối đưa đất nước vào con đường chủ nghĩa xã  hội. 
             
            Chavéz là một người rất đa nghi và luôn cho rằng các Đức  Giám Mục Venezuela đang trù định một cuộc đảo chính. Y thường đáp lại  các chỉ trích của các Đức Giám Mục Venezuela một cách rất không tương  xứng và thiếu lễ độ.  
             
            Chẳng hạn như hôm 17/7/2005, tổng thống  Hugo Chávez đã đùng đùng nổi giận sau khi nhật báo El Universal của  Venezuela đăng bài phỏng vấn Đức Hồng Y Rosalio Castillo Lara. Y đã lên  radio và truyền hình mắng chửi Đức Hồng Y Castillo Lara là "kẻ cướp" và  "vô luân" và cho rằng Đức Hồng Y có "con quỷ bên trong". Thực ra, trong  bài phỏng vấn, Đức Hồng Y chỉ đưa ra một nhận định đã được Hội Đồng Giám  Mục Venezuela lên tiếng nhiều lần. Đức Hồng Y nói rằng xã hội Venezuela  hiện nay đang trải qua một nền dân chủ "phù phiếm". 
             
            Đức Hồng Y  Castillo Lara nói: "Tôi xác tín rằng đang có một chế độ độc tài ngự trị  tại đây. Tôi đang đề cập đến tính chuyên chế và việc thực thi các quyền  hành tùy tiện đã được thu tóm trong tay một cá nhân". 
             
            Bài phỏng  vấn Đức Hồng Y Castillo đã được thực hiện sau bản tuyên bố chung của Hội  Đồng Giám Mục Venezuela đưa ra hôm 16/7/2005, sau khóa họp thường niên.  Trong bản tuyên bố này, các Đức Giám Mục Venezuela kêu gọi toàn dân  đừng để cho hệ thống tư pháp nước này "áp đặt quyền hạn bất chính và sự  trừng phạt đối với những người đối lập". Bản tuyên bố cũng cảnh cáo quốc  hội đang thông qua những luật lệ mà không lý gì đến các kết quả điều  tra dư luận. Bản tuyên bố có những lời lẽ mạnh mẽ như "Đang có những kẻ  mưu toan giải quyết các dị biệt bằng cách đàn áp và bằng việc áp đặt  quyền lực tùy tiện hay bằng các lực lượng vũ trang". 
             
            Trong cuộc  phỏng vấn với báo El Tiempo hôm 31/7/2005, Đức Hồng Y mạnh mẽ tố cáo chế  độ Hugo Chávez giam cầm trái phép hơn 100 chính trị gia đối lập và tra  tấn một số người trong họ. Điều mỉa mai là Chávez luôn nhấn mạnh rằng  chế độ của y là một chế độ dân chủ "gấp triệu lần dân chủ" ở các nước  khác và ông ta được đông đảo dân chúng ủng hộ (Những người đã từng sống ở  Việt Nam, Trung quốc, Cuba và các nước cộng sản khác có lẽ chẳng xa lạ  gì với luận điệu này). 
             
             
              
            
            Đặng Tự Do 
             
              
             
              
             
              
             
              
             
             
             
             
            
            
                
                    
                        | 
                        
                        
                        
                         | 
                     
                    
                        
                        
                        
                               Sáng ngày 10-01-2011, trong cuộc gặp gỡ với đại diện của 181 quốc  gia và vùng lãnh thổ có quan hệ ngoại giao với Toà thánh Vatican, Giáo  hoàng Benedicto XVI khi đề cập đến tình hình Việt Nam đã nói: “Tôi  muốn nêu lên và bày tỏ sự hài lòng với chính quyền Việt Nam đã đồng ý  việc tôi chỉ định một vị đại diện qua những chuyến viếng thăm sẽ thể  hiện mối quan tâm của đấng kế vị thánh Phêrô đối với cộng đoàn Công giáo  thân yêu của đất nước này”.  
                                     Ngày  13-01-2011, Toà thánh chính thức bổ nhiệm TGM Leôpold Girelli, 58 tuổi,  người Italia hiện đang là Khâm sứ Toà thánh tại Indonesia làm đại diện  không thường trực của Vatican tại Việt Nam. Trước sự kiện này, trên  trang Asia Times.com ngày 03-02-2011 đã đăng bài của nhà báo Roberto  Tofani “God and state draw closer in Vietnam” (Chúa và Nhà nước  Việt Nam đã gần nhau hơn). Nhân dịp này, chúng ta hãy nhìn lại mối quan  hệ Việt Nam – Vatican trong quá khứ về cả mặt Giáo hội và Nhà nước.  
                        
                        1- Quan hệ Việt Nam – Vatican về mặt Giáo hội  
                        
                          
                        Giáo  hội Công giáo luôn xác định căn tính của mình là một tổ chức hiệp thông  toàn cầu và duy nhất. Do đó có thể nói, khi có người Việt là tín đồ  Công giáo thì đã xuất hiện quan hệ Việt Nam- Vatican về mặt tôn giáo  rồi(1). Khi số người Việt Nam theo đạo càng đông thì sự quan tâm của  Vatican cũng gia tăng theo. Người có công đầu thúc đẩy sự quan tâm này  phải kể là Alexandre de Rhodes (Đắc Lộ). Sau một thời gian truyền giáo ở  Việt Nam, tháng 6-1649, ông qua Rôma và đề nghị Tòa thánh cử một vài  giám mục tới Việt Nam và xin được phép truyền chức linh mục cho người  bản xứ vì lo sợ giáo sĩ nước ngoài sẽ bị trục xuất hết. Ba tác phẩm của  Đắc Lộ là “Lịch sử vương quốc Đàng Ngoài”, “Phép giảng tám ngày”, “Từ điển Việt – Bồ- La”  đã được Bộ Truyền giáo của Tòa thánh tài trợ và cho in ở Rôma năm  1650-1651 thể hiện sự quan tâm của Vatican đến vùng đất mới ở Á Đông  này. Ngày 9-9-1659, Rôma cử 2 giám mục đầu tiên là Pallu coi sóc Đàng  Ngoài của Việt Nam, Lào và Hoa Nam. Còn giám mục Lambert de la Motte thì  coi sóc Đàng Trong cùng với Chàm, Chân Lạp, Cambodia và Thái Lan. Điều  rất đáng lưu ý là khi cử 2 giám mục này, Tòa thánh cũng phê chuẩn bản  Monita (Nhắn nhủ các thừa sai) để hướng dẫn và cổ vũ cho các hoạt động  hội nhập văn hóa, rất có tính thời sự đến tận hôm nay: “Chư huynh  đừng bao giờ muốn sửa đổi, đừng tìm lý lẽ nào để buộc dân chúng sửa đổi  những phép xã giao, tập tục, phong hóa của họ trừ khi nó hiển nhiên mâu  thuẫn với đạo thánh và luân lý. Có gì vô lý và bỉ ổi hơn mang theo cả  nước Pháp, Tây Ban Nha, Ý hay bất cứ nước nào khác bên trời Âu sang cho  dân Á Đông chăng?”(2). 
                          
                        Một  dấu mốc quan trọng của mối quan hệ giữa Vatican và Giáo hội Công giáo  Việt Nam là ngày 24-11-1960, Đức Gioan 23 đã ký sắc chỉ cho thành lập  hàng Giáo phẩm Việt Nam, nâng 16 địa phận (nay gọi là giáo phận) ở 3  giáo tỉnh của Việt Nam thành các địa phận chính tòa chứ không phải hiệu tòa như trước đây. Số giáo phận ở Việt Nam hiện nay là 26 (trong tổng số 2400 giáo phận trên toàn cầu). 
                          
                        Theo  kinh nghiệm truyền giáo của Vatican, để dễ thành công và tránh được sự  kỳ thị của người bản xứ thì việc phong chức giám mục, linh mục cho người  địa phương phải được coi là ưu tiên hàng đầu. Thế nhưng do định kiến  của các nhà truyền giáo ngoại quốc nên tiến trình này rất chậm chạp. Mãi  đến năm 1668, mới có 4 linh mục đầu tiên là người Việt và sau 400 năm  truyền giáo, mới có giám mục là người Việt (Giám mục Nguyễn Bá Tòng năm  1933). Một thời gian dài, Giáo hội Công giáo Việt Nam do các giáo sĩ  nước ngoài điều hành. Nguyễn Ái Quốc khi gặp Linh mục Cao Văn Luận ở  Paris năm 1946 đã nói: “Trong Giáo hội Công giáo Việt Nam chưa có sự  độc lập. Trên toàn quốc có 15 địa phận, mà chỉ có hai địa phận do giám  mục người Việt coi sóc, còn tất cả các địa phận khác đều nằm trong tay  người nước ngoài. Tôi nghĩ rằng, những linh mục trẻ như ông phải hành  động một trật với chúng tôi, là đòi cho được sự độc lập của các địa phận  Việt Nam”(3). Đây cũng là trăn trở của nhà cải cách Nguyễn Trường Tộ trước đó cả thế kỷ. Chính ông đã hiến kế: “Năm  trước, tôi đã bẩm miệng với quan Thượng thư Bộ binh và Bộ hộ, muốn nhân  lúc đi Tây mà xin với Giáo hoàng, rút giáo sĩ Pháp về và chỉ giao cho  giáo sĩ nước ta trông nom hoàn toàn việc đạo giáo” (4). Điều này chỉ  thực hiện được sau khi nước nhà độc lập, tôn giáo mới có tự do. Bằng  chứng là con số giám mục người Việt hiện nay đã gần 100 vị trong đó có 5  người được phong tước Hồng y (đều sau năm 1975). Nhiều giám mục còn  được bổ nhiệm vào Giáo triều Vatican như Hồng y Nguyễn Văn Thuận là Bộ  trưởng Ủy ban Công lý và Hòa bình (1998- 2002), hay giám mục Vũ Duy  Thống là Ủy viên Hội đồng Tòa thánh về Văn hóa (2005), TGM Nguyễn Như  Thể là Ủy viên Hội đồng Đối thoại liên tôn (2000), Hồng y Phạm Minh Mẫn  là thành viên Uỷ ban di dân của Toà thánh (năm 2011)…Có người được phong  tước Tổng giám mục, sứ thần của Tòa thánh ở Benin và Togo (châu Phi)  như Giám mục Nguyễn Văn Tốt, có người được phong là giám mục ở Hoa Kỳ  như Giám mục Mai Thanh Lương (ở Orange, Cali)…Điều này, tự nó đã nói lên  rằng, Giáo hội Công giáo Việt Nam đã trưởng thành và hàng giáo sĩ cũng  có được tín nhiệm không chỉ ở trong nước mà cả ở quốc tế nữa.  
                          
                        Để  tăng cường quan hệ giữa Giáo triều Vatican và Giáo hội Việt Nam, Tòa  thánh không chỉ bổ nhiệm các giám mục người Việt để cai quản các giáo  phận mà còn cử Đặc sứ (Legat) thay mặt Giáo hoàng đến thăm giáo  hội Việt Nam những dịp hiếu, hỷ hay quan sát tình hình địa phương như  chuyến thăm của Đặc sứ - Giám mục Lecroart (là giám mục ở Trung Quốc)  sang Việt Nam năm 1923 để xem xét việc lập tòa Khâm sứ ở Huế, hoặc Hồng y  R.Etchagaray, được cử là Đặc sứ sang dự tang lễ Hồng y Trịnh Văn Căn  tháng 5-1990, Hồng y Ivan Dias làm đặc sứ chủ sự nghi lễ bế mạc Năm  Thánh 2010 tại La Vang ngày 6-1-2011…Cũng có khi vị Đặc sứ là chính  người Việt. Ví dụ Hồng y Phạm Đình Tụng là Đặc sứ của Giáo hoàng Gioan  Phao lô 2, chủ sự lễ khai mạc kỷ niệm 200 năm biến cố Đức mẹ La Vang  (1998), Hồng y Phạm Minh Mẫn là Đặc sứ chủ sự lễ tang Hồng y Phạm Đình  Tụng (2009)… 
                          
                        Đối với những nước có điều kiện, Vatican thường lập tòa Khâm sứ  (Delegat) để đại diện Tòa thánh tại địa phương. Ở nước ta, năm 1921,  Nguyễn Hữu Bài là Thượng thư Bộ Lại nhưng cũng là người Công giáo, nhân  tháp tùng Khải Định qua Pháp, đã đến Rôma xin Tòa thánh lập đại diện  nhằm khỏi bị người Pháp ngăn cản Giáo hội Việt Nam tiếp xúc với Vatican.  Ông cũng đã dâng cúng đất đai và quyên góp kinh phí để xây dựng tòa  Khâm sứ ở Huế (khi đó là kinh đô của triều Nguyễn). Trong Tông thư công  bố ngày 20-5-1925, Tòa thánh đã cho thiết lập “Khâm sứ tòa thánh ở Đông Dương và Thái Lan”.  Vị Khâm sứ đầu tiên đến nước ta là Tổng giám mục Constantino Ayuti. Sau  khi đến Hà Nội, vị Khâm sứ này đã viết thư cảm ơn tới Thượng thư Nguyễn  Hữu Bài: “Tôi còn phải ghi ơn ngài vì lời đề nghị dâng cho Tòa thánh  một ngôi nhà xứng đáng, dùng làm trụ sở cho vị Khâm sứ ở Đông Dương. Cử  chỉ cao đẹp ấy không phải dành riêng cho kẻ hèn mọn này, nhưng là một  báu vật dâng cho Đức thánh cha. Bởi thế nhân danh Đức Giáo hoàng mà tôi  hân hạnh đại diện ở đây, tôi xin ghi lời cảm ơn ngài cách chân thành”  (5). Có điều vị Khâm sứ này mệnh yểu khi mới ngoài ngũ tuần ngày  27-1-1928 lúc đang nghỉ ở Đà Lạt và có tin đồn nói rằng, ông bị đầu độc  vì người Pháp không ưa vị Khâm sứ quốc tịch Italia này! Điều này khó  kiểm chứng nhưng vị Khâm sứ tiếp theo là Giám mục Colomban Dreyer mang  quốc tịch Pháp (1928-1936). Tòa Khâm sứ được chuyển ra Hà Nội năm 1951,  lần lượt có 8 vị Khâm sứ làm việc ở Việt Nam từ năm 1925. Khâm sứ cuối  cùng là Giám mục Henri Lemaitre rời Việt Nam ngày 27-7-1975. Khâm sứ  Jonh Dooley (1950-1960) là người đã triệu tập các giám mục Đông Dương  họp ở Hà Nội để ra bức Thư chung 1951, lên án gay gắt chủ nghĩa cộng  sản. 
                          
                        Về  phía Giáo hội Công giáo Việt Nam, hàng năm đều có tường trình về tình  hình giáo hội địa phương. Các giám mục khi được tấn phong đều phải thề  hứa trung thành với Giáo hoàng và người kế vị hợp pháp. Theo giáo luật,  cứ 5 năm, các giám mục đều phải về Rôma để viếng mộ hai Tông đồ Phê rô  và Phao lô cũng như báo cáo tình hình giáo hội địa phương (đi Ad Limina). Năm 1980 là năm lần đầu tiên có nhiều giám mục Việt Nam đi Ad Limina nhất, chia thành 2 đoàn, phía Bắc do Hồng y Trịnh Văn Căn dẫn đầu, phía Nam do Tổng Giám mục Nguyễn Văn Bình dẫn đầu. 
                          
                        Giáo  hội Việt Nam cũng ngày càng đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại. Nhiều  giám mục đi tham dự các sinh hoạt quốc tế như Công đồng Vatican 2  (1962-1965), Thượng Hội đồng Giám mục thế giới cũng như Liên Hội đồng  Giám mục Á châu, ngày giới trẻ quốc tế, đi thăm các giáo hội Hoa Kỳ,  Pháp, Philippine, Hàn Quốc…và cũng mời nhiều đoàn giám mục quốc tế đến  thăm Việt Nam như Pháp (năm 1996, 2006), Hoa Kỳ (1999, 2009) và đang có  chương trình tổ chức cho Hội đồng Giám mục Á châu (FABC) họp ở Việt Nam  vào tháng 11-2012 
                          
                        Mặc  dù quan hệ giữa Giáo hội Công giáo Việt Nam và Tòa thánh Vatican là  quan hệ nội bộ nhưng nhiều khi cũng gây sóng gió cho quan hệ đạo đời như  vụ phong 117 thánh tử đạo Việt Nam năm 1988 hay việc bổ nhiệm nhân sự  cho giáo phận thành phố Hồ Chí Minh sau 30-4-1975… 
                          
                        
                        2. Quan hệ Việt Nam- Vatican về mặt Nhà nước 
                        
                          
                        Như  trên đã nói, Vatican không chỉ là thủ đô của Giáo hội Công giáo mà còn  là quốc gia với Giáo hoàng là người đứng đầu, có vai trò như Quốc  trưởng, còn Hồng y Quốc vụ khanh có vị trí như Thủ tướng. Phủ Quốc vụ  khanh có nhiệm vụ liên lạc với các giám mục đại diện Tòa thánh, các đại  sứ, sứ thần ở các quốc gia liên hệ. Việt Nam dù chưa có quan hệ ngoại  giao về mặt Nhà nước với Vatican nhưng hai bên cũng đã có nhiều mối liên  hệ qua lại trong nhiều thập kỷ qua. Chúng ta cùng điểm lại những sự  kiện này. 
                          
                        Sự  kiện quan trọng đầu tiên phải kể đến là sau khi Hồ Chủ tịch đọc bản  Tuyên ngôn độc lập thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ngày  2-9-1945 thì nhiều thế lực thù trong giặc ngoài muốn cướp đi thành quả  cách mạng đó. Đứng trước khó khăn này, Giám mục Nguyễn Bá Tòng đã cùng  ký tên với 4 giám mục người Việt Nam gửi điện văn tới Tòa thánh Vatican  xin ủng hộ nền độc lập của Việt Nam. Nội dung bức điện văn rất cảm động:  “Nhân dân Việt Nam yêu quý của chúng con muốn nhờ trung gian 4 vị  giám mục của họ, dâng lên Đức Thánh cha lòng tôn kính sâu xa và xin Đức  Thánh cha ban phúc lành, tỏ lòng rộng lượng và cầu nguyện cho nền độc  lập mà nhân dân chúng con mới giành lại được và quyết tâm bảo vệ bằng  mọi giá…Đứng trước những biến cố hết sức xúc động như thế này và bản  thân chúng con cảm động tận đáy lòng, vì ý thức bổn phận thiêng liêng  đối với Tổ quốc chúng con, các giám mục Việt Nam chúng con nài xin Đức  Thánh cha, các Đức Hồng y, các Đức Tổng Giám mục, Giám mục và toàn thể  anh chị em Công giáo khắp thế giới và đặc biệt là Công giáo Pháp, hãy hỗ  trợ cho việc quyết định của Tổ quốc yêu quý của chúng con”(6). Rõ  ràng, đây là bức văn thư do các Giám mục Việt Nam ký tên, thể hiện lòng  yêu nước của người Công giáo Việt Nam nhưng nó cũng thể hiện sự quan tâm  của Nhà nước non trẻ với vị thế của Vatican. Bởi vì, chính trong phiên  họp của Chính phủ ngày 27-9-1945 do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì đã xem  xét đề nghị của Giám mục Nguyễn Bá Tòng cho gửi bức điện văn nói trên.  Hơn nữa, nếu không có sự ủng hộ của Chính phủ làm sao lá thư đó được gửi  đi cùng với lá thư gửi anh chị em Kitô hữu toàn thế giới một cách nhanh  chóng trong điều kiện thông tin liên lạc khó khăn lúc bấy giờ. Lá thư  đã gây tiếng vang lớn trên dư luận quốc tế bấy giờ và giáng một đòn mạnh  vào thực dân Pháp. Ngày 14-6-1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại ký Sắc lệnh  234/SL trong đó điều 13 ghi rõ: “Chính quyền không can thiệp vào nội  bộ các tôn giáo. Riêng về Công giáo, quan hệ tôn giáo giữa giáo hội  Việt Nam với Tòa thánh La mã là vấn đề nội bộ của Công giáo”. Đây cũng là một ứng xử tài tình với tôn giáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh. 
                          
                        Khi  đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại ra miền Bắc, Giáo hoàng Phao lô  VI đã ra lời kêu gọi “ngưng ném bom Bắc Việt” ngày 2-5-1967 và gửi điện  văn đến Chủ tịch Hồ Chí Minh mong có giải pháp hòa bình cho Việt Nam,  Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trả lời: “Tôi cảm ơn Ngài đã gửi cho tôi bức  điện ngày 8-2-1967. Trong bức điện đó, Ngài tỏ ý mong muốn sớm có giải  pháp hòa bình về vấn đề Việt Nam…Tôi mong Ngài vì nhân đạo và công bằng,  hãy dùng ảnh hưởng của mình, đòi nhà cầm quyền Mỹ tôn trọng những quyền  dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam là hòa bình, độc lập, chủ quyền,  thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ như Hiệp định Giơnevơ năm 1954 về Việt  Nam đã xác nhận”(7). 
                          
                        Tuy  nhiên, phải thừa nhận rằng, trong thời kỳ chiến tranh lạnh, Vatican  không phải luôn giữ được thái độ trung lập. Bằng chứng là Giáo hoàng  Phao lô VI đã từ chối gặp Bộ trưởng Nguyễn Thị Bình khi bà tới Rôma năm  1971 nhưng lại đón tiếp long trọng Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Giáo  hoàng Phao lô VI chỉ đón tiếp Bộ trưởng Xuân Thủy và Bộ trưởng Nguyễn  Văn Hiếu sau khi hiệp định Paris được ký kết. Đúng như một nhà báo Mỹ  viết: “Trong vấn đề Việt Nam, Đức Giáo hoàng giữ trung lập mà thiên vị”(8). 
                          
                        Sau  khi Việt Nam tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện với chủ trương làm  bạn với tất cả các nước trên thế giới, bầu khí chiến tranh lạnh cũng kết  thúc thì quan hệ Việt Nam- Vatican ấm dần lên. Ngày 01-7-1989, Hồng y  Roger Etchagaray, đại diện của Giáo hoàng Gioan Phaolô 2 đã đến thăm  Việt Nam trong 2 tuần lễ. Đây là quan chức cao cấp nhất của Vatican đến  Việt Nam sau biến cố 30- 4-1975. Cuộc thăm viếng này đã mở ra một lộ  trình mới là thường xuyên có cuộc làm việc hàng năm giữa hai phái đoàn  của Tòa thánh Vatican và Chính phủ Việt Nam bắt đầu từ năm 1990. Từ đó  đến nay đã có 16 lượt đoàn Vatican đến Việt Nam và 3 lần đoàn Việt Nam  qua Vatican (1992 2005 và 2010). Những buổi làm việc này đã giải quyết  được nhiều vấn đề liên quan đến Giáo hội Công giáo tại Việt Nam như vấn  đề bổ nhiệm nhân sự cho các Tòa giám mục, thành lập giáo phận mới, việc  du học của các tu sĩ, linh mục ở nước ngoài cũng như thắt chặt hơn nữa  quan hệ giữa hai bên. Cũng có những vấn đề căng thẳng, bức xúc như nhân  sự cho tòa Tổng giám mục thành phố Hồ Chí Minh (cuộc gặp lần thứ 4 tháng  10- 1996). Phía Tòa thánh đưa ra giải pháp “trọn gói”, trong khi phía  Việt Nam lại muốn giải quyết riêng rẽ từng vấn đề. Sự việc chỉ được tháo  gỡ khi Vatican bổ nhiệm Giám mục Nguyễn Văn Thuận là Phó Chủ tịch Ủy  ban Công lý và Hòa bình của Tòa thánh năm 1994 và Chính phủ Việt Nam  đồng thuận việc bổ nhiệm Giám mục Phạm Minh Mẫn làm Tổng Giám mục Tổng  giáo phận thành phố Hồ Chí Minh (1998). Việc đồng thuận của Vatican và  Nhà nước Việt Nam trong tiến trình bổ nhiệm nhân sự cho Giáo hội Công  giáo tại Việt Nam là một cách làm sáng tạo vừa giữ được quyền bổ nhiệm  của Tòa thánh nhưng vẫn tránh được những va chạm giữa đạo và đời do việc  bổ nhiệm đó. Cuối năm 2005, Hồng y Crescenzio Sepe- Tổng trưởng Bộ  Truyền giáo đã đến thăm Việt Nam và dự nhiều sinh hoạt của giáo hội ở cả  3 miền, đánh dấu một bước tiến mới trong quan hệ Việt Nam- Vatican. 
                          
                        Về  phía Chính phủ Việt Nam, tháng 6-1992, ông Vũ Quang- Trưởng ban Ban Tôn  giáo của Chính phủ đã dẫn đầu và tiếp đến tháng 6-2005, ông Ngô Yên  Thi- Trưởng ban Ban Tôn giáo Chính phủ cũng dẫn đầu đoàn của Việt Nam  qua Vatican. Ngày 27-5-2000, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Dy Niên của  Việt Nam đã có buổi gặp gỡ với Ngoại trưởng Tòa thánh J. Louis Tauran.  Khi Giáo hoàng Gioan Phaolô 2 qua đời và tân Giáo hoàng Benedictô XVI  lên ngôi hồi tháng 4-2005, Thủ tướng Phan Văn Khải đều có điện văn chia  buồn và chúc mừng. Đỉnh cao nhất của mối quan hệ Việt nam- Vatican là  buổi gặp gỡ giữa Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng với Giáo hoàng Benedicto XVI  ngày 25-1-2007 tại Rôma. Thủ tướng Việt Nam đã phát biểu rằng: “Chính  phủ Việt Nam luôn coi trọng mối quan hệ với Tòa thánh Vatican. Chính  phủ Việt Nam chủ trương tiếp tục quá trình đối thoại trực tiếp với Tòa  thánh Vatican dựa trên cơ sở những nguyên tắc đã được hai bên thỏa thuận  là tôn trọng lẫn nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.  Việt Nam mong muốn Tòa thánh Vatican có tiếng nói khích lệ cộng đồng  Công giáo Việt Nam luôn gắn bó với đất nước và dân tộc, làm nền tảng cho  sự phát triển quan hệ giữa Việt Nam và Tòa thánh Vatican”(9). Bản thông cáo báo chí bằng tiếng Anh và tiếng Italia còn nói cụ thể hơn: “Toà  thánh nói lên niềm vui mãn nguyện về chuyến viếng thăm ghi dấu bước  tiến mới và quan trọng tiến đến sự bình thường hoá những quan hệ song  phương. Trong những năm qua, những tương quan này đã nhận được những  tiến bộ cụ thể mong được mở ra những khoảng rộng hơn về tự do tôn giáo  cho Giáo hội Công giáo tại Việt Nam”(10).Về đề nghị của Vatican muốn  thiết lập quan hệ ngoại giao đầy đủ với Việt Nam cũng như sắp xếp cho  cuộc thăm viếng của Giáo hoàng Benedicto XVI đến Việt Nam, phía Chính  phủ Việt Nam đề nghị ngoại giao hai bên làm việc với nhau để đưa ra lộ  trình phù hợp. Tiếp đó, ngày 11-12-2009 Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết  cũng có buổi hội kiến với Giáo hoàng Benedicto XVI tại Vatican. Bản  thông cáo báo chí của Toà thánh viết: “Toà thánh bày tỏ hài lòng về  cuộc viếng thăm. Đây là một bước ý nghĩa đối với sự phát triển song  phương giữa Việt Nam với Toà thánh. Cầu mong những vấn đề còn tồn đọng  sớm được giải quyết. Trong các cuộc hội kiến thân mật, các vị đã đề cập  đến những vấn đề liên hệ, tới sự cộng tác giữa giáo hội và nhà nước”.  Đây được coi là chuyến thăm lịch sử mở ra triển vọng mới cho quan hệ  hai bên. Để thúc đẩy quan hệ song phương, một nhóm công tác hỗn hợp Việt  nam- Vatican đã được thành lập gồm đại diện của cả hai bên và đã có hội  nghị vòng 1 tại Hà Nội (năm 2009) và vòng 2 tại Vatican (tháng  10-2010). Nhiều vấn đề đã được đưa ra thảo luận nhằm thúc đẩy quan hệ  song phương. Phái đoàn ngoại giao Vatican do Đức ông Pietre Parolin- Thứ  trưởng ngoại giao của Toà thánh dẫn đầu cũng đã kết thúc tốt đẹp chuyến  thăm Việt Nam lần thứ 16 từ ngày 15 đến 22-2-2009. Hai bên đã ra thông  cáo báo chí đánh dấu một bước tiến quan trọng trong lộ trình thiết lập  quan hệ song phương. Bản thông cáo viết: “Hai bên ghi nhận chiều  hướng phát triển đáng khích lệ của mối quan hệ giữa Việt Nam và Toà  thánh từ năm 1990 tới nay. Hai bên cho rằng cuộc họp đầu tiên của nhóm  công tác hỗn hợp là một bước tiến quan trọng trong quan hệ giữa Việt Nam  và Toà thánh và nhất trí tiếp tục nỗ lực hơn nữa để thúc đẩy quan hệ  song phương”.  
                          
                        Về  triển vọng của quan hệ Việt Nam- Vatican, nhiều người lạc quan vì cho  đó là xu thế tất yếu vì lợi ích của không chỉ 6 triệu đồng bào Công giáo  Việt Nam mà còn vì lợi ích của cả dân tộc cũng như góp phần vào hòa  bình chung trên thế giới. Hơn nữa ở Việt Nam, dù quá khứ trong quan hệ  đạo - đời có những vụ việc phức tạp nhưng hiện tại thì không có vấn đề  nan giải như ở Trung Quốc trong quan hệ với Vatican (như vấn đề Công  giáo yêu nước, vấn đề Đài Loan…). Đúng như diễn văn của Hồng y Ivan  Dias- đặc sứ của Giáo hoàng Benedicto XVI trong lễ bế mạc Năm thánh 2010  tại La Vang chiều 05-01-2011: “Tôi rất thích ý tưởng Giáo hội và Nhà  nước như bậc cha và mẹ trong một gia đình. Khi họ sống thuận hoà thì  con cái họ hạnh phúc hơn”. Vì vậy quan hệ đầy đủ giữa Việt Nam với Vatican, chắc chắn không phải là điều quá xa vời. 
                          
                        
                        TS. Phạm Huy Thông 
                        
                          
                        Chú thích: 
                        1-  Theo Lịch sử giáo hội thì ông Đỗ Hưng Viễn ở Bồ Trung, Thanh Hóa được  coi là tín hữu Công giáo đầu tiên ở VN. Ông theo đạo khoảng năm 1580 khi  đi sứ ở Trung Quốc. 
                        2- Dẫn theo “ Sống đạo theo cung cách Việt Nam”, Nxb Tôn giáo 2004, tr.164. 
                        3- Trần Tam Tỉnh: Thập giá và lưỡi gươm, Nxb Trẻ 1988, tr.78 
                        4- Trương Bá Cần: Nguyễn Trường Tộ: con người và di thảo, Nxb T.P HCM 1990, tr.325 
                        5- Theo Báo Nam Kỳ địa phận số 947, tr.37 
                        6- Hồ Chí Minh với đồng bào Công giáo, Nxb CTQG 2004, tr.346 
                        7- Hồ Chí Minh…s đ d, tr.184-185. 
                        8- Trần Tam Tỉnh, s đ d, tr.166 
                        9- Theo Báo Phụ nữ Việt Nam số 13 ngày 29-1-2007. 
                        10- Theo Vietcatholicnews ngày 26-1-2007. 
                         
                         | 
                     
                
             
             
             
             
             
             |